Nét đẹp của đình làng
Nét đẹp của đình làng,
dinh vạn ở Phan Thiết
BTO- Đình làng đã xuất hiện từ thế kỷ thứ II - III như một trạm
dừng chân dọc đường nơi làng xã. Nhưng đình làng thật sự phát triển vào thời Hậu
Lê (1428-1527) và trở thành nơi thờ tự Thành hoàng (Thần làng) và các vị thần
khác. Trong dòng chảy lịch sử ấy, phủ Hàm Thuận xưa cũng lập nên các đình làng,
dinh vạn để thờ tự những Tiền hiền có công lập ấp và thần Nam Hải phò trợ nghề
biển. Trong các câu chuyện mà chúng tôi được nghe, xin kể lại 2 điểm di tích mà
đến nay trải qua 2 thế kỷ xây dựng nhưng gần như vẫn giữ nguyên vẹn giá trị văn
hóa lẫn kiến trúc, đó là đình làng Đức Thắng và dinh Vạn Thủy Tú.
Đình làng Đức
Thắng
Theo tích xưa, vào
năm Bính Tý (1816) nhân một lần Tả quân Lê Văn Duyệt kinh lý các tỉnh phía nam,
lúc đi ngang qua Phan Thiết, ông Trần Chất người có vai vế trong làng Đức Thắng
cùng dân làng ra phủ phục đầu ngựa dâng sớ xin được giải quyết tranh chấp và xin
được xây cầu, lập chợ. Lê Văn Duyệt thấy vô cớ bị dừng xe, đã giận dữ khép tội
ông Trần Chất là phạm thượng và cho quân chém đầu ông tại chỗ. Lúc về kinh, đọc
lại tờ sớ và xét vô tội, nên Tả quân xin vua Gia Long phong cho ông Trần Chất là
tiền hiền làng Đức Thắng. Cảm kích trước hành động dũng cảm vì dân của ông, dân
làng Đức Thắng đã xây mộ, đắp bia ghi công đức và dựng đình thờ. Lúc đầu
đình được dựng tạm bằng tranh tre, đến năm 1841 nhân dân góp công góp của xây
dựng kiên cố và 7 năm sau(1847) công trình mới hoàn chỉnh. Trên nóc Đình làng
vẫn còn dòng chữ Hán khắc ghi niên đại xây dựng “Tân Sửu chí Đinh Mùi”, tức từ
năm 1841-1847.
Xem Clip
Đình làng Đức Thắng sử dụng lối kiến
trúc dân gian tứ trụ, các nóc đình hợp lại thành hình chữ Tam gồm đình chính thờ
Thành hoàng, đình thờ Tiền hiền, hậu hiền và võ ca, tất cả đều lợp mái âm dương.
Riêng đình chính có thêm phần cổ lầu và tập trung nơi đây nghệ thuật trang trí
và đắp nổi những bức tranh dân gian, điển tích xưa. Nội thất đình bài trí nhiều
khám thờ, liễn đối, bao lam gỗ được nghệ nhân sử dụng lối chạm lộng để thể hiện
đề tài, tạo nên hình tượng “tứ linh”, cây cảnh, chim chóc sinh động.
Ở ngoại thất đình, đề tài trang trí
tập trung ở cổ lầu và khoảng cổ diêm (khoảng hở giữa mái thượng và mái hạ) đầu
hồi, hình ảnh long, phượng chiếm vị trí chủ đạo. Đình làng Đức Thắng là ngôi
đình có quy mô và kiến trúc đồ sộ bậc nhất ở phủ Hàm Thuận cũ và khu vực Phan
Thiết ngày nay. Triều Nguyễn từ đời Tự Đức đến Khải Định đã ban cho các vị thần
ở đình 7 sắc thần viết trên giấy kim tiên màu vàng và đều đóng dấu đỏ của Triều
đình “Sắc mạng chi bảo”.
Ông Nguyễn Tường Hưng – Phó Ban tế tự
Đình làng Đức Thắng cho biết: Khi xưa đình làng phục vụ nhiều mục đích từ thờ
tự, tế lễ, nhà hội đồng chung, nơi xử kiện, cũng là nơi vui chơi, sinh hoạt ca
hát… Nếu gia đình có từ đường thờ cúng thì nhân dân Đức Thắng coi đình làng như
một đại từ đường. Tuy nhiên, theo dòng chảy lịch sử, các chức năng của đình làng
đã dần chuyển cho ủy ban, nhà văn hóa, nó gần như trở thành đền thờ, chỉ tập
trung sinh hoạt vào 2 nghi lễ chính của làng là lễ tế xuân vào ngày ngày 15 –
16/2 âm lịch: cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, an cư lạc nghiệp và lễ tế
thu vào ngày 16/9 âm lịch: trả ơn một năm ông bà đã phù hộ cho dân làng làm ăn
suôn sẻ, thuận lợi. Đình làng đã được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích kiến trúc nghệ
thuật quốc gia ngày 3/8/1991, tuy nhiên hiện nay điểm di tích này vẫn chưa được
nhiều du khách biết đến và người dân lui tới thường xuyên. Đáng buồn là một số
cổ vật trưng bày trên nóc đình làng như cá hóa long, thanh long, lân, phụng…
sống cùng làng gần 200 năm nhưng thời gian qua đã bị lấy trộm. Ban tế tự cũng
mong có sự phối hợp với chính quyền địa phương để quảng bá, bảo vệ, giữ gìn và
phát huy hết những giá trị tốt đẹp của ngôi đình.
Dinh Vạn Thủy Tú
Một địa điểm di tích cũng thuộc
phường Đức Thắng nữa là Vạn Thủy Tú. Vạn được thiết lập vào năm Nhâm Ngọ (1762),
gồm 3 nóc nhà cổ và lớn theo thứ tự: võ ca, chính điện và nhà thờ tiền hiền bố
trí theo dạng hình chữ Tam, mặt chính trở về hướng đông. Lúc mới xây dựng cửa
dinh sát ngay bờ biển, ngày nay biển đã lùi xa hơn 100m.Dinh vạn đã được Nhà
nước xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1996.
Đến tham quan, sau khi mua vé
vào cửa, du khách sẽ được hướng dẫn thăm phòng trưng bày
cốt ông Nam Hải - nơi
lưu giữ bộ xương cá ông khổng lồ với chiều dài 22m, nặng 65 tấn, được phục dựng
gần như nguyên vẹn.
Đi tiếp vào bên trong là chính điện
đặt khám thờ thần Nam Hải với pho tượng cổ bằng đất nung rất lớn, sau lưng tượng
vẽ một chữ “Thần”. Gian bên hữu thờ bà Thủy thần, bên tả thờ Tổ nghề biển cùng
với những pho tượng cổ bằng đất nung. Hàng chục bức hoành phi, liễn đối có niên
đại nửa cuối thế kỷ XVIII chạm nổi, nội dung ca ngợi các vị thần Nam Hải và các
bậc tiền bối đã phò trợ cho ngư dân làm ăn yên ổn. Nhiều bao lam, thành vọng
khắc bằng kỹ thuật chạm lộng phủ xuống các khám thờ mềm mại như những bức
lụa.Nhà Tiền hiền đặt 3 khám thờ các vị tiền hiền, hậu hiền của làng ngư. Diện
tích còn lại để trống dùng làm nơi nhóm họp của ngư dân trong các kỳ tế lễ.
Điểm khác biệt với ngôi đình ở đây là
khoảng giữa (tiếp nối) vách sau chánh điện với vách tường trước của nhà thờ Tiền
hiền được xây rộng ra và bao kính làm thành ngôi tẩm để chứa nhiều bộ xương Ông
từ ngày lập vạn Thủy Tú. Những tẩm bên cạnh chứa gần 100 bộ xương khác, có bộ
xương rất lớn và quá nửa có niên đại hơn 100 năm. Nhà võ ca trước đình thờ thần
có cấu trúc như nhà võ ca của những ngôi đình thường thấy, nhưng trang trí bên
trong rộng và thoáng cho phù hợp với lễ hội cầu ngư và những lễ nghi, tín ngưỡng
dân gian của nghề biển. Phía trước có khoảng đất rộng để mai táng cá Ông bị dạt
từ ngoài biển vào, mỗi lần mai táng xong sau 3 năm mới “thượng cốt nhập tẩm”.
Ở Dinh Vạn Thủy Tú còn có một chuông
đồng cổ, với hình dáng, kiểu cách đúc lạ, khác hẳn các chuông đồng khác ở các
đình, chùatrong tỉnh. Chiếc chuông này được đúc vào thời Tự Đức do ngư dân của
vạn đóng góp. Trên thân chuông khắc chìm nhiều phong cảnh và dòng chữ Hán ghi
niên đại.
Theo ông Huỳnh Giác – Vạn trưởng Vạn
Thủy Tú: Dinh Vạn Thủy Tú được ngư dân vùng biển coi như nơi tôn thờ Thủy tổ
nghề biển, có quy mô đồ sộ, trang nghiêm trong vùng. Chưa có nơi nào có lượng
sắc phong nhiều như ở đây. Riêng đời vua Thiệu Trị (1841 - 1847) đã cấp 10 sắc
thần và hiện các sắc thần này đều được bảo quản tốt. Hàng năm có 3 lễ chính vào
ngày 20 – 21 âm lịch là lễ tế xuân đầu năm, 20 – 21/4 âm lịch lễ cầu ngư đầu
mùa, 20- 21/6 âm lịch lễ cầu ngư chính mùa và 3 năm sẽ tổ chức đáo lễ một lần. Ở
kỳ đáo lễ này, bà con tổ chức các nghi thức cúng tế trang trọng, có phần hát
bội, hát bả trạo, các trò chơi dân gian… Hiện số lượng thanh niên trai tráng
trong làng theo nghiệp biển không còn nhiều, thêm vào đó đời sống của ngư dân
còn khó khăn nên các dịp tế lễ tuy vẫn giữ được những nét trang nghiêm nhưng
không còn đông vui như ngày xưa.
Thục Anh