Món cháo lươn ở đường Mậu Thân
Món cháo
lươn ở đường Mậu Thân
BTO-
Từ mấy năm nay ở Phan Thiết có một nơi mà bà con đồng hương Nghệ An, Hà Tĩnh và
rất nhiều thực khách khác vẫn thường hay lui tới để ăn sáng, đó là quán cháo
lươn trên đường Mậu Thân. Với cách bài trí mộc mạc bình dân, nhưng lại khá đông
khách, vào ngày thường có khi phải ngồi chen nhau, thứ 7 hay chủ nhật thì nhiều
khi không còn chỗ trống. Bởi cháo lươn tuy là món ăn dân dã, nhưng là đặc sản
nổi tiếng của quê hương Nghệ Tĩnh. Họ đến đó ngoài việc thưởng thức một tô
cháo vàng ươm sóng sánh phảng phất hương vị quê nhà, còn là dịp để thưởng thức
không khí thân quen từ cung cách phục vụ, đến cốc chè xanh và cách chào hỏi xưng
hô bạn bè, đều rất đặc trưng của quê hương xứ Nghệ. Và tôi thấy rằng hình như
ăn cháo lươn mà không có mấy người đồng hương cùng ngồi, thì tô cháo dù có ngon
đến mấy cũng nhạt đi đôi chút.
Cháo lươn Nghệ An từ lâu đã trở
thành thương hiệu, những ai đã từng qua Vinh mà chưa được thưởng thức nó, thì
coi như chưa biết đến món ăn độc đáo của người dân vùng này, nó không phải là
cao lương mỹ vị, nhưng đã không ăn thì thôi, mà đã ăn vào là nhớ mãi. Tôi là
người Nghệ An, nên khi được mấy người bạn rủ đi ăn cháo lươn ở ngay Phan Thiết
là tôi tỏ ra ngạc nhiên và háo hức, thì ra thời buổi này người ta nhanh nhạy
quá, bởi cái gì đã được ăn từ khi còn bé, thì cái ngon cứ theo mãi với cả đời
người. Mà đã là nơi đô thị thì người vùng miền nào mà chả có, bây giờ ở Phan
Thiết thiếu gì phở Hà Nội, bún bò Huế, mì Quảng, hay thị cầy Nam Định, thì có
quán cháo lươn xứ Nghệ quê mình nghĩ ra cũng là chuyện phải thôi. Chúng tôi đến
đó với bốn người, ngoảnh trước ngoảnh sau thấy toàn là người quê choa cả,
chưa kịp ngồi ấm chỗ đã thấy 4 tô cháo, được một cháu gái lần lượt bưng ra, kèm
theo là đĩa bánh tráng, cùng rau thì là và tía tô thái nhỏ. Còn ai muốn thêm
chanh, ớt hay nước mắm thì tùy. Quả thật hương thơm của mùi cháo, của thì là và
tía tô bốc ra làm tôi ứa nước miếng, trên cùng là những miếng thịt lươn vàng
ngậy và những hạt mỡ li ti vàng óng, xen vào đó là mùi tiêu cay nhẹ. Tôi cầm
muỗng đảo vài lượt và xúc miếng lươn lên miệng, cảm giác là mềm ngọt, hơi cay,
vừa ăn và ngon tuyệt, đúng là cháo lươn của quê mình rồi. Chỉ khác một chút là
không có mùi tàu (ngò gai) như mẹ tôi ngày xưa vẫn nấu cho cả nhà trong những
ngày hè oi bức. Nếu ai thấy cháo hơi loãng thì cứ việc bẻ nhỏ bánh tráng cho
vào, ăn như thế càng ngon. Cái ngọt của cháo ở đây là được hầm từ xương lươn với
đầu lươn, không hề nêm bột ngọt và hoàn toàn không có đường, nó khác với bánh
canh hay hủ tiếu của người Phan Thiết, bao giờ cũng phải có đường, đến canh ăn
hàng ngày cũng phải nêm chút đường thì mới được. Nhập gia tùy tục, tôi bây giờ
nấu canh cũng làm như vậy và rồi ăn cũng ngon như thường. Ăn xong cháo, nếu bạn
làm thêm trái chuối tráng miệng và một cốc chè xanh miễn phí, thì thật là khoan
khoái và dễ chịu. Để được món cháo lươn ngon như thế, chủ quán đã phải mua lươn
đồng và được đặt từ Đức Linh và Tánh Linh đưa xuống, không bao giờ mua lươn
nuôi, con lươn phải có màu vàng ươm, không quá lớn cũng không quá nhỏ, cỡ nhỏ
hơn ngón chân cái là ngon nhất. Cả nhà phải dậy từ 3 giờ sáng, đầu tiên là bắc
soong đun nước sôi để om chè xanh, người ngoài mình ăn xong tô cháo lươn mà có
cốc chè xanh thì càng thêm thú vị, chị chủ quán bảo với tôi như thế. Tiếp đến là
bắt lươn sống ra làm sạch nhớt, đây là công đoạn khá vất vả, sau khi làm sạch sẽ
để ráo nước thì cho vào nồi hấp chín và đem ra gỡ thịt, còn xương và đầu thì cho
vào hầm kỹ. Đến cái món ướp gia vị và xào thịt lươn sao cho hết mùi tanh, chỉ
còn lại một mùi thơm đặc trưng là cả một kỳ công của món cháo này. Tôi không
biết chị chủ quán ở đây đã làm thế nào, nhưng khi tôi còn nhỏ, mẹ tôi nấu cháo
lươn bao giờ cũng ướp một chút nghệ và mấy củ hành tăm đập nhỏ, loại hành củ
nhỏ nhưng rất thơm và chỉ có vùng Nghệ An, Hà Tĩnh mới có. Cháo lươn có vị mát,
no lâu mà không nặng bụng, nó rất bổ đối với những ai mới ốm dậy, nó phù hợp với
mọi lứa tuổi, từ cụ già đến em bé, ai dùng cũng đều tốt cả.
Nói đến cháo lươn tôi lại nhớ đến
một câu chuyện ở thôn Trung Tiến, xã Hưng Tiến, huyện Hưng Nguyên quê tôi, ở đó
có một gia đình gọi là nhà bà Chắt Thiều, mà từ bà cố ngoại đến bà ngoại và
người mẹ đều có nghề bắt lươn rất giỏi , chỉ một buổi trưa họ ra đồng là bắt
được những mấy ký. Và đặc biệt chỉ khi nào con gái chuẩn bị lấy chồng, thì người
mẹ mới bày cho biết cái nghề này, ngoài ra con dâu và con trai thì dứt khoát
không được biết. Tôi không hiểu hết ý nghĩa của cách truyền nghề mang tính mẫu
hệ này. Nhưng nhờ cái nghề bắt lương độc đáo ấy, mà cuộc sống của gia đình bà
có phần đỡ hơn nhiều so với nhiều nhà khác.
PHAN CAO THÔNG