Ký sự hành phương Bắc
Ký sự hành phương Bắc
Kỳ 1: Cột cờ Lũng Cú - Hà Giang
BT- Mang theo niềm khắc khoải từ câu
thơ xưa của thi tướng Huỳnh Văn Nghệ: “Ai về Bắc ta đi với/ Thăm lại non sông
giống Lạc Hồng...”, chúng tôi rủ nhau “về Bắc”, và quyết tâm tìm đến tận mảnh
đất cực Bắc của Tổ quốc. Và đó quả là một chuyến đi đầy cảm xúc, để lại nhiều ấn
tượng khó phai.
Sẽ không bao giờ chúng tôi quên được
Hà Giang, nơi mà những địa danh như Quản Bạ, Lũng Cú, Mã Pì Lèng, Đồng Văn, Yên
Minh, Mèo Vạc... cứ in sâu vào tâm trí, gợi lên những cảm xúc rất lạ, rất thiêng
liêng mà không dễ gì lý giải được.
|
Cột cờ Lũng Cú. |
Trên bản đồ Việt Nam, Hà Giang là
mảnh đất nhô lên cao nhất. Trước biển, các mũi đất là nơi chịu đựng nhiều sóng
gió, thì cũng vậy, trải mấy nghìn năm chống ngoại xâm, cái “mũi đất” Hà Giang
này cũng đã hứng chịu biết bao tàn khốc bạo liệt của nạn binh đao, ấy vậy mà vẫn
kiên cường hiên ngang trường tồn cùng lịch sử dân tộc.
Đã từ lâu chúng tôi ước ao được đặt
chân lên mảnh đất cực Bắc của Tổ quốc. Biên cương xa thẳm, nhưng đó chính là nơi
thấm đẫm máu trăm miền, là nơi bao thế hệ từ cổ chí kim đã hy sinh xương máu để
gìn giữ cho sự bình yên của trăm họ. Phải đi, đi như một sự tri ân, đi để tiếp
quản cương thổ quốc gia, đi để khẳng định chủ quyền của một người dân đối với
đất nước mình. Sự háo hức khiến chúng tôi quyết định chọn một hành trình nhanh
nhất có thể. Vậy là, sáng còn ở Tánh Linh, chiều có mặt ở Hà Nội, và ngay cái
đêm đầu tiên trên đất Bắc, chúng tôi đã tròng trành trên chuyến xe đêm ngược lên
Hà Giang, để rồi sáng hôm sau đi một mạch lên Lũng Cú!
Đường lên Lũng Cú
Con dốc Bắc Sum quanh co dài hơn
10km đưa chúng tôi tiến dần lên cao nguyên đá. Hai bên đường, những nương ngô
xanh rì men theo dòng suối trong mát, những ngọn núi đá cao chất ngất, những
ngôi nhà sàn gỗ của người Tày, đã vẽ nên một bức tranh tươi đẹp đầy sức sống.
Càng lên cao, sự sống càng như kiệm
lại. Những nương ngô như tấm áo nhà nghèo, không đủ để che đi cái màu xám xịt
của núi đá. Tuy nhiên, đây đang là mùa hè, mùa của cây cối tốt tươi, chứ về mùa
đông thì cả cao nguyên mênh mông chỉ xám ngắt một màu của đá và đá. Sơn, một
chàng trai Tày cao to trắng trẻo, là Giám đốc Công ty du lịch CND - người bạn
đồng hành cùng chúng tôi - đã giới thiệu ngắn gọn về quê hương mình như thế. Với
chất giọng trầm ấm và rất chuẩn, Sơn liên tục cập nhật kiến thức cho chúng tôi
về mảnh đất Hà Giang này.
Qua những đoạn cua vòng vèo ngoắc
nghéo liên tục của đèo Yên Minh là đến thị trấn Yên Minh. Chúng tôi dừng chân ăn
trưa ở nhà hàng Phúc Cái. Nhà hàng ở đây thật đúng với nghĩa đen của nó, ấy là
trong “nhà” có bán “hàng”… Bữa cơm trưa ở nhà hàng Phúc Cái cứ như bữa cơm trong
gia đình, chủ nhà và khách cứ chuyện trò như những người bạn thân thiết. Cạnh
bàn ăn là bộ xa-lông cũ kỹ với chiếc điếu cày và bộ ấm chén đã lên màu thời
gian. Chủ nhà giục, vội gì thì cũng tranh thủ cạn chén, chứ lên đến đất Hà Giang
mà không nhắm chén rượu ngô thì phí cả quãng đường!
Bữa cơm trưa vội vã với món heo đen
quay vàng ruộm, dĩa cá suối chiên, tô canh rau cải mèo và đọt lá su su luộc; sợ
không kịp thời gian nên chẳng thể rề rà với chén rượu ngô ủ men lá, chúng tôi
lên đường trong sự lưu luyến của người chủ nhà vui tính và hiếu khách.
Rời thị trấn Yên Minh - cái tên gợi
nên sự yên bình và sáng sủa - chúng tôi tiếp tục leo đèo. Chỉ qua vài khúc
quanh, ngoái nhìn lại, thị trấn bé như bàn tay đã nằm dưới thung sâu hun hút. Ở
đây đường đi chỉ bám vào sườn núi đá, vì núi tiếp núi, đá chồng đá, họa hoằn lắm
mới có chút đất bằng thì đó chính là khu dân cư tập trung, là thị trấn, thị tứ.
Theo lời Sơn, nơi đây rất ít bị tác động bởi thiên tai, và Yên Minh bao giờ cũng
được hiểu theo nghĩa ấy.
Cột cờ Lũng Cú
Cách TP. Hà Giang chỉ chừng 70km
đường chim bay, vậy mà chúng tôi phải ngồi ô tô từ sáng đến tận xế chiều mới tới
được Lũng Cú! Lũng Cú nằm trên tận cùng cái chóp nhọn của Tổ quốc, nên có đến ba
mặt giáp với Trung Quốc. Cột cờ Lũng Cú được xây trên đỉnh đồi, nên từ xa chúng
tôi đã nhìn thấy, và sự háo hức cứ lớn dần theo quãng đường ngắn lại. Xuống xe,
đứng lặng người ngước nhìn lên đỉnh cột cờ lộng gió, một niềm vui sướng, một cảm
xúc thiêng liêng khó tả cứ dậy lên trong lòng. Trong cái gió dịu nhẹ của buổi
chiều nơi miền biên viễn, lá cờ đỏ sao vàng rộng lớn vẫn phần phật bay. Gió biên
cương hiền hòa thì cờ bay dịu nhẹ, nhưng hễ gió càng cuồng nộ, cờ càng bay hiên
ngang. Phải chăng, đó chính là tinh thần, là thái độ của người dân nước Nam qua
bao cuộc trường chinh giữ nước?
Có phải niềm vui háo hức lấn át đi
sự mệt nhọc chăng, nên leo hàng trăm bậc đá lên cột cờ Lũng Cú mà dường như
chẳng ai thấy mệt. Cô Vân Anh - người thuyết minh tại cột cờ Lũng Cú hôm ấy
trong trang phục sặc sỡ của người Lô Lô cứ liên tục động viên mọi người, và
tuyệt nhiên chẳng thấy ai dừng nghỉ trên suốt đoạn đường dốc với 389 bậc thềm đá
ấy.
Lũng Cú, theo các nhà nghiên cứu thì
chính là cách gọi trệch đi của hai chữ “Long Cổ”, tức là trống của vua. Tương
truyền, cột cờ Lũng Cú đã có từ thời Lý và được làm bằng cây sa mộc, nhưng đến
thời vua Quang Trung thì nơi đây mới được đặt một chiếc trống lớn, cứ mỗi canh
giờ lại gióng lên ba hồi vang xa như để khẳng định chủ quyền lãnh thổ. Nghe Vân
Anh bảo, Trung Quốc đặt một chiếc camera rất lớn để theo dõi mọi hoạt động của
ta ở vùng biên Lũng Cú, nhiều du khách đã vẫy tay chào chiếc camera, rồi lại
ngẩng đầu lên thành kính ngắm nhìn lá cờ Tổ quốc với ngôi sao vàng năm cánh trên
nền cờ đỏ thắm đang phần phật bay trong màu xanh bất tận của bầu trời. Một thông
điệp quá rõ ràng nhưng không hề kém tinh thần hữu nghị!
Lá cờ Tổ quốc trên đỉnh cao Lũng Cú
có kích thước 6m x 9m, diện tích đúng bằng 54m2, tượng trưng cho 54 dân tộc anh
em nước Việt. Cột cờ có hình dáng tương tự như cột cờ Hà Nội. Sáu mặt chân đế
đều có chạm khắc phù điêu mang nét hoa văn của trống đồng Đông Sơn. Với độ cao
trên 1.700m, Lũng Cú đêm ngày lộng gió, và tiếng cờ bay phần phật suốt đêm ngày
như làm thay cho công việc tiếng trống giữ nước của tiền nhân.
Chúng tôi may mắn đến được Lũng Cú
vào lúc thời tiết đẹp nhất khi cơn bão số 2 đã tan. Trong mênh mang chiều Hà
Giang, trong cái nắng vàng rươm tháng sáu, trong cái gió ràn rạt ở độ cao ngàn
mét, sao cứ nghĩ mãi về cuộc sống nơi lưng chừng trời của bà con nơi đây, chợt
rưng lòng khi cảm nhận được cái tình cảm sâu sắc của người dân Hà Giang với quốc
gia, dân tộc. Trên cao nguyên đá khắc nghiệt này, ngoài chuyện mưu sinh, người
dân nơi đây còn có sứ mệnh cao cả hơn nhiều: đó là việc trụ lại cùng với nắng,
với gió, với đá cao nguyên để giữ nguyên cột mốc chủ quyền của đất nước…
Nam Hưng - Lương
Văn Lễ
Kỳ 2: Sau cổng
trời Quản Bạ