Huyện đảo Phú Quý
Huyện đảo Phú Quý: Một số loại hải sản và vì sao gọi là Long Hải?
BT- LTS: Lê Hữu Lễ
là nhà nghiên cứu, từng viết cho nhiều tờ báo trong miền Nam trước giải phóng và
sau này viết cho Tạp chí nghiên cứu, Báo Sài Gòn giải phóng, Tuổi Trẻ, Sức khỏe
và đời sống… Gần nhất là viết về: “Đảo Phú Quý và tập thơ “Đi Kinh” trên Tạp chí
Nghiên cứu và phát triển số 4 (75). Tác giả vừa qua đời tại Phan Thiết khi ý
định xuất bản cuốn khảo cứu về Phú Quý chưa thành. Được sự đồng ý của con gái
ông - cô Trinh Thơ, chúng tôi lần lượt trích từ một phần nhỏ trong bản thảo nói
trên giới thiệu với bạn đọc những điều xưa cũ về Phú Quý.
|
Nuôi cá mú lồng bè ở Phú Quý. Ảnh: Đình Hòa |
Nói đến Phú Quý là nói đến một cụm
đảo, cách Phan Thiết 56 hải lý về hướng Đông Nam. Phú Quý có rất nhiều tên gọi
trước đây, có lúc thuộc huyện Tuy Phong, có lúc thuộc huyện Hàm Thuận, nay là
huyện đảo thuộc tỉnh. Phú Quý, từng là nơi giàu tiềm năng hải đặc sản quý. Bài
viết này ghi lại vài loại hải sản, đặc sản của Phú Quý trước đây (nay vẫn còn
nhưng lượng không nhiều).
Một số loài cá
Cá nục sỏi: Là loại cá nằm trong bộ
cá nục sồ, xuất hiện ở biển Đông, thích nghi vùng lắm đá ngầm. Ở Phú Quý, cá nục
sỏi còn có tên gọi là cá đuôi cờ. Từ tháng 9 - 11 hàng năm là mùa cá nục sỏi.
Để đánh bắt cá nục sỏi, ngư dân thường thả chà, sau đó dùng lưới hai - ba vây
bên ngoài cội chà để bắt cá. Phú Quý từng có nhiều cội chà hay, thu từ 300 -
500kg cá trong một lần quây lưới. Ngoài ra, có thể dùng ống câu để câu cá nục
sỏi. Mỗi ống câu có trên 30m dây cước. Cứ cách 1m dây cước thì mắc 1 lưỡi câu
kèm theo một chùm kim tuyến trắng, giả làm mồi câu. Khi dây câu thả xuống nước,
do ảnh hưởng của nước chảy và sóng biển, chùm kim tuyến luôn lay động, hút đàn
cá nục sỏi bơi lại, đớp mồi và dĩ nhiên sẽ mắc câu. Người câu giỏi, mỗi lần thu
dây câu bắt được khá cá.
Cá hồng: Xuất hiện nhiều ở Phú Quý
trước đây. Đây là loại cá chuyên ăn cá nhỏ, thích ghi với vùng biển nhiệt đới,
sống ở tầng đáy. Con lớn nhất dài tới nửa thước, nặng 5 - 6kg. Cá đẻ trứng từ
tháng 3 - 7, tháng 5 thì đẻ rộ. Trước ngày giải phóng, ngư dân đi thuyền ra
khỏi đảo 200m, dùng lưới giã, có thể bắt được cá hồng, hoặc cá mú nghé.
Cá dảnh: Có 2 loại cá dảnh ở Phú
Quý. Đó là dảnh bông và dảnh vẩy. Cá dảnh, con lớn nhất dài tới 25cm, là loại cá
mà nếu đem chế biến nước mắm sẽ được loại nước mắm cao độ đạm, thơm ngon. Cá
dảnh còn được phơi khô, làm thức ăn trong những ngày mưa bão.
Cá không xương: Còn có tên gọi là cá
lưỡi dong, đặc điểm là mềm như bún. Cá có hình dạng tròn, to bằng cái chén, da
nhám, màu vàng pha sọc đen, đôi vi xòe ra như chân ếch, bơi rất nhanh. Bắt được
cá lưỡi dong, ngư dân thường bỏ nuôi trong hồ làm cá cảnh.
Cá chào dao: Một giống cá thuộc bộ
cá đuối, xuất hiện quanh năm ở Phú Quý. Cá chào dao có hình vuông và dẹp. Con
lớn nhất có kích thước như một bộ ván. Da trơn láng, màu nâu sậm, bụng trắng. Cá
sống trong vùng có dòng hải lưu nóng ấm... vùi mình trong cát chỉ chừa 2 con
mắt và lỗ thở. Ngư dân Phú Quý trước đây đánh bắt cá chào dao bằng lưới vây rút
chì, chu vi là 10km. Thỉnh thoảng, ngư dân Phú Quý gặp cảnh “chào dao đóng mẻ”,
nghĩa là một đàn chào dao sau khi bị động liền “nhập đất”, con trên đè con dưới,
bất động. Khi gặp cảnh đó, ngư dân phải lặn xuống, gỡ từng con rồi đưa lên
thuyền. Cá chào dao được xẻ khô, làm thực phẩm.
Cá bò: Có 5 loại cá bò ở biển Phú
Quý. Đó lá bò ngừ, bò dẹp, bò hòm, bò gai và bò hút. Cá bò di chuyển từng đàn, ở
lưng chừng mặt nước để tìm thức ăn. Từ tháng 2 - 5 là mùa cá bò đẻ. Cá bò có da
lưng nhám, gai mọc trên kỳ. Ngư dân đánh bắt cá bò bằng câu tay hoặc lưới giã.
Ốc vú nàng: Phú Quý là giang sơn
của các loài nhuyễn thể, trong đó độc đáo hơn cả là ốc vú nàng. Muốn bắt ốc vú
nàng, người ta dùng đèn bấm soi vào các khe, kẹt đá chung quanh đảo, bởi ốc
thường bám vào đá. Ốc có đường kính chừng 6,8cm, vỏ cứng, hình dáng như đôi vú
của người phụ nữ. Vỏ ốc có xà cừ dùng khảm đồ gỗ. Thịt ốc vú nàng làm thành món
gỏi rất ngon.
Trước đây Phú Quý là nơi có nhiều
tôm hùm, đặc biệt là quanh các hòn Đen, hòn Đỏ, hòn Tranh vì bên dưới các hòn
này có nhiều đá ngầm, hang hốc, thích hợp cho tôm hùm sinh sống. Ban ngày tôm
hùm rúc vào hang, đêm bò ra tìm mồi. Mùa “săn” tôm hùm kéo dài từ tháng 1 - 5.
Để săn bắt tôm hùm, người ta thường mang dây chì bên hông (cho nặng), kính lặn
một tròng, găng tay, một chiếc móc câu dài 50cm, vợt lưới, giỏ đựng (đeo bên
hông). Vào lúc bình minh trên biển, nước “ấm”, người săn tôm hùm nhảy ùm xuống
đáy nước. Khi chân chạm đáy thì nhanh chóng dùng que sắt sục vào các hang, hốc
đá, tìm tôm. Trước năm 1975, nghề lặn tôm ở Phú Quý khá thịnh hành, có nhiều ghe
lặn. Mỗi ghe lặn thường có 4 - 5 người, năng suất 100kg tôm/ngày. Đa phần người
lặn săn bắt tôm đều giỏi bơi lặn và lặn lâu hơn người bình thường. Tôm hùm ngoài
phần thịt ngọt, vỏ tôm có thể làm hàng trang trí.
Doi, lạch và vì
sao gọi là xã Long Hải?
Với nhiều người Phú Quý, tên gọi
“doi, lạch” không có gì là lạ. Thế nhưng nếu đặt câu hỏi: vì sao gọi là doi là
lạch thì không phải ai cũng tường tận. Theo một số cụ cao tuổi, doi là chỉ những
cuộc đất nằm ngang thòi ra biển. Chẳng hạn, doi dừa ở thôn Quý Thạnh, xã Ngũ
Phụng có hàng dừa xanh tươi, cạnh gành đá chồng đen mướt, làm nổi bật màu cát
trắng mịn của bãi biển. Tương tự, cách doi dừa hơn 100m là doi ông Tỉnh. Về doi
ông Tỉnh có chuyện kể, thời Pháp, mỗi khi ra đảo, quan Pháp thường dùng cano để
di chuyển từ tàu lớn vào bãi. Mỗi lần như vậy thường cột cano vào các gốc dừa ở
doi đất, lâu ngày dân địa phương quen gọi là doi ông Tỉnh. Tại Ngũ Phụng còn có
rẻo đất bị biển ăn khuyết, tạo thành bức tường cản gió, gọi là vịnh, hay lạch
dù. Lạch dù khá sâu nên tàu thuyền vào mùa nồm nam có thể vào đây tránh gió.
Ngoài ra, còn có lạch Chòi của thôn Hội An, xã Tam Thanh.
Từ năm Đồng Khánh thứ nhất (1885),
Phú Quý có 11 thôn: Thoại Hải, Thương Hải, An Hòa, Phú Mỹ, Hải Châu, Quý Thạnh,
Triều Dương… Thời phong kiến có lệ là những gì trùng với tên vua, chúa thì phải
đổi sang tên khác (kỵ húy). Năm 1928, khi Bảo Đại làm vua, dân thôn Thoại Hải sợ
rằng chữ Thoại (Thụy) vướng đến tên khai sinh của vua là Vĩnh Thụy nên đã cử ông
Tổng Võ Gia Huệ ra tận triều đình Huế xin đổi tên thôn là Long Hải. Sau hiệp
định Geneve tháng 7/1954, Nha đại diện hành chính Phú Quý được thiết lập, đã cải
biến số thôn trên thành 3 xã: Long Hải, Ngũ Phụng và Tam Thanh như ngày nay.
Lê Hữu Lễ