Bàu Trắng ở Bình Thuận và Bàu Tr
Bàu Trắng ở Bình Thuận và Bàu Tró ở Quảng Bình: Khám phá về những nét tương đồng
BT- Ở miền Trung
Việt Nam từ thuở khai thiên lập địa đã có hàng trăm hồ nước ngọt (người miền
Trung gọi là bàu) lớn nhỏ khác nhau, nhưng có hai hồ nước rộng lớn bên cạnh biển
mà vẫn có nước ngọt, đó là Bàu Tró ở tỉnh Quảng Bình và Bàu Trắng ở tỉnh Bình
Thuận với những đặc tính giống nhau, từ lâu được nhiều người biết đến, cần khám
phá để biết thêm các giá trị về thiên nhiên và văn hóa cũng như tiềm năng du
lịch của hai hồ nước ngọt tự nhiên này.
|
Ảnh minh họa |
Bàu Trắng
Về nguồn gốc, theo các nhà khoa học
để hình thành những bàu này nguyên trước đây là các lạch trũng thoát triều, đầm
phá ven biển sau bị các cồn cát ven biển chặn lại ở phía ngoài khiến cho chúng
không thông được với biển. Các lạch trũng này sau bị thoái hóa và được lấp đầy
bởi vật liệu do hoạt động của biển tạo nên bề mặt tích tụ biển - đầm phá như
ngày nay. Ở Bình Thuận có nhiều bàu nước tự nhiên, là những ốc đảo trong sa mạc
đầy nắng gió được hình thành do nước ngầm thoát ra tích tụ lại mà thành. Đáng
chú ý hơn cả là Bàu Trắng (bao gồm Bàu
Ông và Bàu Bà) ở xã Hòa Thắng, huyện
Bắc Bình, có dung tích khoảng trên 12 triệu m3 nước ngọt. Bàu Bà rộng hơn và
chứa lượng nước nhiều hơn Bàu Ông.
Truyền thuyết trong dân gian của
người dân ở đây cho rằng Bàu Trắng không có đáy và thông ra với biển. Cho đến
nay nhiều người ở Bình Thuận cũng như du khách khi đến đây cũng tin là bàu không
đáy. Trên thực địa cho thấy: Bàu Bà có diện tích 70 ha, nơi rộng nhất là 500 m,
độ sâu trung bình là 5 m, nơi sâu nhất của Bàu Bà là 19m vào mùa mưa. Càng về
phía bờ, nước càng cạn dần. Từ Bàu Bà và các trũng nhỏ nguồn nước ngọt thấm ngầm
qua các đụn cát ra phía biển, khi còn cách biển khoảng 600 m nước xuất lộ, tạo
dòng suối nước ngọt đổ ra biển với lưu lượng khá lớn.
Khảo sát khảo cổ học từ những năm 80
của thế kỷ trước cho biết, xung quanh Bàu Trắng về phía Nam có nhiều vết tích
của các làng Chăm. Do nhiều lý do của lịch sử, người Chăm đã dời làng đi nơi
khác để lại nhiều vết tích và địa tầng sinh sống. Đáng lưu ý là họ đã để lại đền
thờ Thiên Y A Na cách bờ Bàu Trắng về phía Nam khoảng 100m. Khoảng đầu thế kỷ
XVIII, các lưu dân Việt từ các tỉnh Bắc Trung bộ và Trung Trung bộ đến vùng đất
này vừa tiếp quản vừa khai phá để hình thành nên những làng mạc như ngày nay.
Các làng Việt ở khu vực này tiếp quản đền thờ Thiên Y A Na (lúc này đã hoang
phế) để xây dựng thành đền thờ với đầy đủ các thiết chế của một khu đền thờ để
thờ Thiên Y A Na theo cách riêng của mình. Sử cũ gọi là đền thờ bà Chúa Động.
Đây là trường hợp thứ hai có hiện tượng này trong lịch sử và giao lưu văn hóa
Việt - Chăm. Mà trường hợp thứ nhất là đền thờ Công chúa Bàn Tranh ở đảo Phú Quý
cũng có lịch sử tương tự như vậy.
Những năm kháng chiến chống Pháp,
nơi đây là địa điểm nuôi giấu cũng là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm cho du
kích. Biết được việc này thực dân Pháp triệt hạ ngôi đền. Năm 2001, Bảo tàng
tỉnh phối hợp đồn biên phòng phát hiện tượng thần Avalokitesvara ở khu vực này
có niên đại từ thế kỷ IX. Rất có thể chính tượng thần Avalokitesvara trước đây
người Chăm đã thờ trong ngôi đền cổ.
Tại Bàu Trắng, tháng 3/1967, du kích
Khu Lê đã dùng súng bộ binh bắn cháy chiếc máy bay AD-6 do Mỹ chế tạo khi nó
đang bắn phá gây tội ác ở đây. AD-6 là máy bay cường kích trên hạm, có động cơ
cánh quạt, do bay thấp nên khi trúng đạn máy bay rơi ngay ở giữa Bàu Trắng. Mãi
đến tháng 9/1993, khi đánh cá trên bàu, người dân xã Hòa Thắng đã phát hiện và
trục vớt chiếc máy bay này. Trước khi bán phế liệu xác chiếc máy bay, Bảo tàng
tỉnh đã kịp thu hồi và mua lại 4 khẩu pháo 20mm gắn trên máy bay.
Bàu Tró
Bàu Tró là tên một hồ nước ngọt nằm
giữa đồi cát ven biển, thuộc phường Hải Thành, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng
Bình. Nơi đây, từ ngàn xưa, người nguyên thủy đã cư trú quanh hồ. Dấu vết của
người xưa đã chìm dần trong cát quanh hồ. Truyền thuyết trong dân gian kể rằng,
Bàu Tró rất sâu, sâu không có đáy. Người ta đã thử bằng cách chèo thuyền ra giữa
hồ, buộc đá vào dây thả xuống hồ để đo chiều sâu, thế nhưng thả hoài dây cũng
chẳng chùn. Đến khi hết dây này, nối thêm dây khác cũng không thấy đá chạm đáy,
nên không rõ chiều sâu hồ Bàu Tró là bao nhiêu. Lại có chuyện kể rằng, bàu này
“không có đáy” mà thông với một bàu nước ngọt khác là Bàu Sen, cách TP. Đồng Hới
ngót 30 km. Đó là cách lý giải dân gian về khả năng vô tận của nguồn nước ngọt
quý hiếm nằm lọt vào giữa ba bề bốn bên là nước mặn. Đó là những suy diễn trong
dân gian.
Ngày nay, Bàu Tró được biết đến về
nguồn gốc, bàu này là vũng bàu cổ bị nhạt hóa dần sau khi cách ly khỏi biển do
quá trình bồi tụ của các doi cát chắn phía ngoài hoặc cũng có thể là vùng trũng
giữa đụn cát cổ ứ nước mà thành. Bàu Tró có dạng như một quả bầu hơi eo, cách bờ
biển 300 - 450 m. Chiều dài trung bình là 1.070 m, rộng 220 m ở phần Tây Bắc,
100 m ở đoạn gần giữa và 250 m ở phần Đông Nam. Bàu Tró nằm ven biển ở phía đông
bắc Đồng Hới với dung tích khoảng 9 triệu m3, sâu đến 12m (mùa mưa) và 6 - 8 m
(mùa khô). Bàu có giá trị cung cấp nước sinh hoạt và sản xuất, trong đó phục vụ
sinh hoạt cho thành phố Đồng Hới khoảng 4.500 m3/ngày với chất lượng nước đảm
bảo.
Bàu Tró vừa là một thắng cảnh, vừa
là một vùng di tích với những di chỉ khảo cổ học của người Việt cổ để lại. Vào
năm 1923, hai người Pháp là Max và Depiruy đã phát hiện ra di chỉ khảo cổ học
tại đây. Năm 1980, Trường Đại học Tổng hợp Huế tổ chức khai quật lại di chỉ Bàu
Tró. Hiện vật thu được gồm có nhiều rìu, bôn đá, bàn mài, chày nghiền, mũi nhọn,
các loại nồi, niêu, bình, vò... Và từ đó các nhà khảo cổ học đã lấy tên của di
chỉ này để đặt cho nền văn hóa hậu kỳ đá mới phân bố ở vùng ven biển Nghệ An, Hà
Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên là văn hóa Bàu Tró. Bàu Tró được xếp
hạng di tích khảo cổ cấp quốc gia.
Những điểm tương đồng trên đây của
tự nhiên ở hai hồ nước ngọt sát biển mà người dân ở đó cùng gọi là bàu. Với
khoảng cách gần 1.000 km từ Bàu Trắng đến Bàu Tró khiến chúng ta khá ngỡ ngàng
như có ai sắp đặt trong thế giới tự nhiên hàng triệu năm về trước. Thiên nhiên
đã ban tặng cho người dân Bình Thuận và Quảng Bình những di sản quý báu. Vấn đề
còn lại là người dân ở đây khi khai thác phục vụ du lịch đồng thời phải biết giữ
gìn nguyên trạng, đừng để khai thác quá mức làm mất đi dáng vẻ tự nhiên của hai
bàu nước.
XUÂN LÝ