Bếp quê

Bếp quê

BT- Về làng thăm chị.

Nhà chị, cái chái bếp chị thấp lè tè, nền bằng đất nên rất ẩm. Chị ngồi lui cui bên bếp lửa mới nhen, cứ thi thoảng lại cầm cái ống thổi lửa bằng tre lên thổi phì phò. Tro trấu dính đầy mặt. Trời mưa, củi ướt nhúm được bếp lửa là rất khó. Nhưng rồi đâu cũng vào đó, củi bén được, lửa bắt đầu hừng lên, củi cháy nổ lép bép nghe rất vui tai. Trên cái bếp kiềng ba chân, chị đặt nồi khoai lang lên nấu, chiếc nồi bằng nhôm đen kịn màu lọ nghẹ có từ hồi mẹ còn sống vẫn được chị dùng để nấu nướng cho tận đến bây giờ.

Nhìn cái dáng gầy gò ngồi co ro bên bếp lửa của chị, tôi thấy thương chị làm sao. Ngày xưa, cũng ở cái chái này, bên bếp lửa có cái ông kiềng ba chân bằng sắt này, cả nhà, có mẹ, có chị, có các anh em quây quần nhau vui đùa chờ cơm sôi, canh chín. Nhiều đêm, đói bụng, hai anh em lấy khoai lang vùi vào bếp tro nóng, khoai lang vùi tro bóc ra nghe thơm phức, ăn là ghiền. Trời mưa dầm, mẹ và chị xay bột đổ bánh xèo, bên bếp lửa cháy riu riu, mấy anh em vừa thổi vừa ăn những chiếc bánh xèo nhân tép nóng hổi, giòn rụm. Ngày giỗ, tết, mấy cái bếp trong nhà luôn bận rộn, lửa lúc nào cũng đỏ, cũng reo, mùi xào nấu thơm nồng hương vị xông lên mũi, nghe mà bụng dạ cồn cào.

Bếp lửa quê đã thắp sáng tâm hồn tôi ngay từ thời thơ ấu. Sao quên được những đêm đông giá rét, bên bếp lửa cháy bập bùng mấy mẹ con ngồi co ro sưởi ấm. Những buổi chiều nhìn khói bếp rúc qua mái tranh bay vấn vương buồn rười rượi.

Bếp lửa đối với người nông dân rất quan trọng, để lửa tắt, bếp nguội là không nên, bởi lửa là hiện diện của sự sống. Các mẹ, các chị ngày xưa khi bếp núc đã xong, thường chọn những thanh củi cháy đượm ủ tro lên để giữ lửa, nhờ vậy bếp bao giờ cũng ấm. Mấy chú mèo cứ đêm đêm xúm nhau cuộn mình ngủ khò trong tro ấm.

 Ở thôn quê ngày ấy củi nhiều, nên nhà nào cũng sắm một vài bếp kiềng để nấu. Gì chứ củi trong nhà không thể thiếu. Mưa dầm mà nhà thiếu củi, củi ướt là khổ lắm. Tôi với anh tôi thường rủ nhau mang gióng gánh, búa rựa ra rẫy tìm củi mục, củi gốc về chẻ, sắp lớp lang, che đậy cẩn thận để mẹ, chị nấu nướng hàng ngày.

Bây giờ mẹ không còn, anh em mỗi đứa có gia đình với cuộc sống riêng. Nhà xưa, bếp xưa, sớm hôm chị lủi thủi một mình, mặc ai bếp gas, bếp điện, chị vẫn một mực trung thành với cái ông kiềng đốt bằng củi. Củi rừng, củi rẫy không còn, chị lại ngày ngày quảy gióng gánh đi nhặt cành đào, keo tràm khô... về chụm. Bếp lửa với chị thành niềm vui bầu bạn.

Mỗi lần vào thăm chị, nhìn chị phì phò cái ống thổi lửa bằng tre, nhìn những xoong, nồi lọ nghẹ đen thui, tôi lại thấy thương mẹ, thương chị, thương cái bếp quê nghèo đã nuôi tôi khôn lớn.

NGÔ VĂN TUẤN