Ra vạn An Thạnh xem lễ hội nghin
Ra vạn An Thạnh xem lễ hội nghinh thần
BT- Hàng năm, cứ đến ngày 15 – 16/10 (âm lịch), tại vạn An Thạnh (Tam Thanh -
Phú Quý) lại diễn ra lễ hội nghinh thần Nam Hải và kỵ Cố. Cố được tôn xưng là
thần Nam Hải (cá voi) đầu tiên được dân thờ trong vạn. Đây là nét văn hóa đặc
trưng của cư dân vùng biển.
|
Vạn An Thạnh |
Trước khi diễn ra lễ hội rước ông Sanh (thần Nam Hải còn sống ở biển), người
Liên chi trưởng của hội vạn mời tất cả ngư dân của xã Tam Thanh cùng về vạn An
Thạnh. Tùy theo mỗi năm mà lễ hội diễn ra vào tối 15 hay sáng 16/10 (âm lịch).
Tham gia lễ, người có chức sắc và trưởng lão trong làng đội khăn đóng áo dài đen
(màu tượng trưng cho hành Thủy - NV). Sau khi tập trung đông đủ, theo sự hướng
dẫn của người chủ sự, mọi người cùng ra bờ biển Mỹ Khê. Đây là địa điểm diễn ra
lễ thỉnh ông Sanh. Chủ trì lễ có 3 người đại diện gồm: một chánh chủ và hai học
trò. Tất cả ba ông đều quỳ, hướng mặt ra biển. Hai học trò quỳ hướng đông – tây,
chánh chủ quỳ giữa. Bàn thờ thỉnh ông Sanh quay vô đất liền, trên bàn thờ có
thần vị ghi: “Cung thỉnh ngũ phương Nam Hải dương trung cự tộc Ngọc lân thủy
tướng nhị thập nhất hiệu chi sanh Thần”. Bài thần vị do thầy của hội vạn An
Thạnh soạn thảo. Trước khi chắp bút viết thần vị, thầy phải chay tịnh trong 15
ngày để bảo đảm thân trong sạch. Ngoài thần vị, trên bàn thờ còn có mâm trầu
cau. Theo ý nghĩa trong bát quái, trầu được têm 8 đôi và đặt 8 hướng. Khay trầu
là đồ chuyên dùng cho việc cúng tế trong vạn. Bên cạnh trầu cau là nhang đèn và
rượu trắng. Rượu gồm 1 xị và 5 chung. Trên bàn thờ, 5 chung rượu đặt theo phương
vị: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Sau khi kiểm tra lễ vật cúng tế đâu vào đó, lễ mới
chính thức tiến hành.
Bắt đầu lễ thỉnh ông Sanh, học trò (người giúp việc) xướng: “Khởi chinh cổ”. Lập
tức dàn nhạc nổi chiêng 3 hồi 7 tiếng. Cùng với chiêng là 3 hồi 7 tiếng trống.
Học trò tiếp tục xướng: “Khởi nhạc xanh”. Liền theo đó là nhạc xanh đánh 3 hồi,
7 chặp. Phục vụ lễ hội nghinh thần Nam Hải, dàn nhạc gồm có: kèn, trống, đờn cò,
mõ sừng trâu, chiêng, chập chã. Sau khi nhạc dứt, học trò xướng: “Chánh chủ tựu
vị nghệ sanh thần vi tiền”. Nghe tiếng xướng, chánh chủ vô bàn (thờ) vọng bái.
Bái xong lại xướng “Quỳ phần hương”, tức thì người hầu rượu đốt 3 nén nhang
(tượng trưng cho thiên, địa, nhân- tam tài-NV) kính dâng lên ông chủ. Thay mặt
ngư dân trong vạn An Thạnh, ông chủ chắp nhang niệm: “Mời chư vị Sanh thần về
chứng giám lòng thành của ngư dân và phù hộ dân chúng bình an, được mùa”. Niệm
xong, ông chủ đưa 3 nén nhang cho người hầu rượu cắm vào lư hương. Động tác đó
gọi là thượng hương. Sau lễ dâng hương, học trò lại xướng: “Phủ phục hưng bình
thân, nghinh Sanh thần cúc cung bái”. Nghe câu xướng, ông chủ quỳ bái và lạy 4
lạy. Bái, lạy xong đến phần châm rượu theo câu xướng: “Sơ hiến lễ chiết tửu”.
Bấy giờ người hầu rượu châm vào 5 chung, mỗi chung một ít rượu. Lễ dâng rượu
xong, học trò tiếp tục xướng: “Phủ phục hưng bình thân”. Sau câu xướng, ông chủ
đứng dậy lạy 2 bái (hưng bái). Học trò đứng bên tây xướng: “Quỳ chuyển chúc”,
học trò đứng bên đông lập tức quỳ dâng giá văn cho ông chủ. Nội dung văn nghinh
Ông mỗi năm một khác, đại ý khấn vái mời chư vị thần Sanh về vạn kính tế. Nâng
giá văn cao ngang mày, ông chủ lạy một lạy, say đó chuyển cho học trò phía tây
đọc. Vì nội dung giá văn viết bằng chữ Nho nên có khi học trò không đọc được.
Trong trường hợp này ông chánh chủ phải quỳ đọc. Đọc văn xong lại lạy hai bái và
xướng: “Á hiến lễ chiết tửu phân hiến”. Học trò theo đó châm rượu lần thứ 2 vào
5 chung. Châm rượu xong, ông chủ lại lạy 2 lạy, lại xướng: “Chung hiến lễ chiết
tửu phân hiến”. Học trò châm rượu lần cuối xong, ông chánh chủ quỳ lạy 2 lạy
(cúc cung bái) rồi đứng dậy (phục vị).
Đến đây, phần lễ tạm dừng, nhường chỗ cho phần hội. Hội là gánh chèo bá trạo
(trăm tay chèo). Trong gánh chèo có bộ múa tứ linh (long, li, quy, phụng). Bài
chèo kể công đức của ngài (ông Sanh - thần Nam Hải) đã giúp dân chài trong khi
gặp nạn giữa trùng khơi sóng gió; quá trình đưa ngài về lăng (vạn) thờ cúng. Bài
hát chấm dứt cũng là phần hội kết thúc để nhường cho phần lễ tiếp tục.
Bấy giờ, ông chủ trở lại quỳ trước bàn thờ xướng: “Ẩm phước”. Học trò bưng rượu
dâng, ông chủ nâng chung rượu ngang mày và vái 3 vái. Học trò xướng: “Thọ huệ”,
ông chủ đem rượu xuống khỏi bàn thờ rồi lạy 2 lạy. Tiếp đến là phần đốt văn
nghinh Ông. Để đốt văn, chủ và học trò đều quỳ lạy 4 lạy. Sau đó đứng lên xướng:
“Nghệ phụng Sanh thần hồi lăng sở tế”. Đến đây xem như kết thúc lễ nghinh ông
Sanh ở bờ biển. Tiếp đó, đoàn làm lễ về lại vạn An Thạnh để thực hiện lễ kỵ Cố.
Trên đường trở về vạn, gồm 300 người mang cờ ngũ hành đi trước, theo sau là gánh
múa tứ linh, gánh chèo bá trạo vừa đi vừa hát. Sau gánh chèo là thầy, chủ, học
trò và bàn thờ ông Sanh. Bàn thờ có 4 người khiêng, hai lọng che bàn thờ, quân
sĩ mang siêu, kiếm để hầu ngài. Đi sau bàn thờ là trưởng lão và ngư dân. Đoàn đi
tới đâu, dân đi theo tới đó, huyên náo cả một vùng.
Tại vạn có ban trống chờ đón đoàn nghinh ông Sanh. Thoáng thầy đoàn tới đầu vạn,
chiêng trống nổi lên rộn ràng. Ban lễ ở vạn có 1 thầy, 3 chủ, 2 học trò, 2 ông
chinh cổ. Chinh cổ mặc áo rộng màu xanh, viền vàng ở cổ và tay áo; mão có gương
tròn ở trước và sau, hai dây tua dài xuống tới lưng trông rất đẹp. Đoàn vào vạn
kính cáo với ông Cố (thần cựu) rằng đã thỉnh ông Sanh về, gọi là an vị. Nghi
thức an vị được học trò xướng: “Tựu vị nghệ thần vi tiền”. Lúc bấy giờ 3 ông chủ
quỳ ở 3 bàn (trong vạn có 3 bàn thờ) và lạy 4 lạy… Sau những nghi thức cúng bái
và chiết rượu như xong phần an vị của ông Sanh.
Tiếp đến là phần lễ ngư, học trò xướng: “Củ soát nghinh (tế) vật”. Theo đó 3 ông
chủ kiếm soát các vật phục vụ việc cúng tế. Chủ sự phải là người còn vợ, con
cháu đầy đủ. Kế đến, học trò xướng: “Nghinh vật ký thành chấp sự giả các ty kỳ
sự” (Ai có việc gì thì làm việc nấy cho tròn bổ phận). Chiêng, trống, xanh lại
nổi lên. Ba ông chủ trước khi bước vào điều hành chính thức buổi lễ phải dùng
khăn sạch lau tay, lau mặt.
Nghi thức kỵ Cố giống lễ nghinh ông Sanh, chỉ khác là xướng: “Kham thần cúc cung
bái” chứ không xướng: “Nghinh thần cúc cung bái”. Bốn lạy cuối cùng xướng: “Lễ
từ cúc cúng bái” chứ không xướng: “Nghệ phụng sanh thần hồi lăng sở tế”. Lễ kỵ
ông Cố thần vị ghi: “Nam tế hải linh, cự tộc ngọc lân thủy tướng nương nương tôn
thần nguyên tặng trạm trừng trợ tín chi thần gia tặng dực bảo trung hưng uông
nhuận trung đẳng thần”. Ngoài việc đọc văn mời ông Cố (lúc này, các mâm cỗ đã
được dọn lên bàn thờ), chủ sự còn mời các vị (cá voi) được thờ trong vạn. Kết
thúc phần lễ là phần hát bội diễn ra thâu đêm.
NGUYỄN
HỮU CÁN