Thú uống trà của người Nam bộ
Thú uống trà của người Nam bộ
Đôi điều về trà
BT- Người Việt Nam nói chung có thói
quen uống trà từ rất lâu, khoảng nửa sau thiên kỷ thứ nhất, ở miền đồi núi trung
du và châu thổ, người Việt đã trồng chè. Ở Cửu Chân (Thanh Hóa thời xưa) có núi
Chè, đặt tên chữ là Trà Sơn. Không giống như Trung Quốc và Nhật Bản, nghệ thuật
uống trà được nâng lên thành “Kinh đạo” và “Trà đạo”, song văn hóa uống trà của
người Việt cũng khá cầu kỳ nhưng cũng mang tính dân dã. Trong sách “Dư địa chí”
của Nguyễn Trãi đã nhắc đến trà Tước Thiệt (trà lưỡi chim sẻ), người ta còn gọi
là trà móc câu thuộc giống trà mi ở vùng Sa Bôi nay thuộc tỉnh Quảng Trị (ngày
xưa thuộc Châu Ô, Châu Lý). “Vân Đài loại ngữ” (1773) của Lê Quý Đôn lần đầu
tiên ghi chép về cây chè ở vùng Thanh Hóa và việc chế biến trà bánh của làng
Bạng nổi tiếng về nghề chè. Theo một học giả người Đức là J.Koch, trong một bài
in ở tạp chí “Cây trồng ở các thuộc địa” tháng 8/1900 có viết: “...Ở vùng đất
Nam Kỳ đặc biệt phì nhiêu, giữa Thủ Đức và Thủ Dầu Một hiếm thấy nhà nào mà
không có ít nhất 1/2 ha trồng chè Huế. Vườn chè gia đình thường trồng quanh nhà
ở, xen với cau, cây ăn quả”. Ở Việt Nam có rất nhiều giống chè trồng hợp với khí
hậu địa phương, các nơi trồng chè nổi tiếng như: Phú Thọ, Hà Giang, Hòa Bình,
Nghệ An, Thái Nguyên, Lai Châu, Bảo Lộc (Lâm Đồng). Đối với dân gian, người ta
thích uống trà lá tươi gọi là chè hơn là các loại trà mang tính chất cầu kỳ như
trên.
|
Ảnh minh họa |
Trong quá trình vào phương Nam mở
cõi, dù không thể áp dụng theo lối uống trà hay thưởng thức trà ở “đàng ngoài”,
người miền Nam lại có cách thức uống trà bớt cầu kỳ, đơn giản hơn nhưng cũng rất
chân tình và ấm cúng.
Người miền Nam
uống trà
Dù không theo thuật dưỡng sinh theo
cách “Bình minh nhất trản trà”, song thời gian cho việc uống trà vẫn tuân theo
giờ giấc, khoảng từ 4 - 5 giờ sáng, đây là thời khắc “đêm qua ngày tới” hay khí
âm đã suy, khí dương đang thịnh, rất có lợi cho sức khỏe, khi thưởng thức uống
trà, dù là độc ẩm (uống một mình), nhị ẩm (uống hai người) hay quần ẩm (nhiều
người) cũng là bắt đầu kế hoạch và công việc cho một ngày mới, trước khi đến chỗ
làm hay ra đồng ruộng…
Ngoài những loại trà cầu kỳ đắt tiền
như Thiết Quan Âm, trà Ô Long… ở miền Nam trước đây người bình dân thường ưa
chuộng loại trà pha chế sẵn hiệu quả Bầu hay con Cua, nước đượm, mùi vị cũng rất
ngon, và người ta có thể bỏ bớt những cầu kỳ của nước mưa, nước suối, chỉ cần có
nước giếng trong cũng là điều quý, ấm nấu nước bằng than hay củi đều được, song
không để nước sôi quá “già” và khi pha trà phải tráng trà hay còn gọi là “rửa
trà”, loại bỏ bụi và tạp chất nếu có, bởi trà nước thứ hai mới ngon, thể hiện
kinh nghiệm “Rượu trên be, chè dưới ấm” và “Tửu tam, trà nhị” (rượu uống chén
thứ ba mới ngon, trà chỉ chén thứ hai). Bình pha trà chỉ cần một cái bình con
(bình tích) hoặc bình lớn và có thể sử dụng chén uống trà, ly, tách, không cầu
kỳ phân biệt “chén quân, chén tống” và cũng không sử dụng chén “mắt trâu” hay
“bôi”, nói chung là không kén chọn dụng cụ để uống và thưởng thức trà như ở miền
Trung hay miền Bắc với những bộ đồ trà cầu kỳ, đắt giá có khi là đồ cổ, bảo vật…
Người uống trà lâu ngày thành thói
quen, nghiện và không thể bỏ như Trần Tế Xương đã viết: “Một trà, một rượu, một
đàn bà/Ba cái lăng nhăng nó quấy ta/Chừa được thứ gì hay thứ nấy/Họa chăng chừa
rượu với chừa trà!” hay “Làm trai biết đánh tổ tôm/Uống chè Mạn Hảo, ngâm nôm
Thúy Kiều”, thể hiện một nét quê nhà và cũng là bản sắc của người Việt, nhất là
con cháu, hậu duệ của những người rời xa quê hương đi mở cõi. Ly trà cũng để
dâng lên tổ tiên dùng trong cúng bái, thường gọi là “cúng nước hay dâng trà”.
Trà cũng được bày ra khi nhà có hỷ sự, hoặc tang chế hay trong dịp cúng giỗ, gặp
mặt gia đình, mặc dù có nhiều phụ nữ miền Nam không uống được nước trà!
Bạn trà
Uống trà vừa cầu kỳ, mất thời gian,
có khi sợ làm phiền vợ con, người chủ gia đình thường thức dậy sáng sớm và ra…
quán. Quán không giống như ở phía Bắc có bán nước trà, mà chủ yếu là bán cà phê
đủ hạng loại, cà phê… kho, cà phê vợt, cà phê phin và khuyến mãi thêm… ấm trà. Ở
đấy có thể “Tùng tam tụ ngũ”, quây quần anh em, bè bạn bên ấm trà bằng nhôm,
nóng… phỏng tay, bàn tán chuyện đời, thế sự, chuyện mùa màng cho đến… bóng đá,
có khi còn cả… số đề và cá cược. Bởi bạn trà không như ngày xưa, tinh chọn trong
những bạn bè chí cốt, tâm giao, vì “bạn trà” khó kiếm hơn “bạn rượu”, ngày nay
thì miễn cứ… uống được trà, cùng chung sở thích thì vui vẻ mời gọi. Văn hóa và
nghệ thuật uống trà hiện nay đã ăn sâu vào đời sống của rất nhiều người. Ở các
tỉnh, thành phố lớn miền Nam đã có các quán, hội quán “trà đạo, trà quán” cho
những người thích thú với không gian yên tĩnh, nghệ thuật pha trà và thưởng thức
những tách trà hương thơm đến quyến luyến, mê mẩn, còn rất nhiều quán cà phê từ
các hang cùng ngõ hẻm đến những nơi sang trọng, thỏa mãn thú uống trà cho mọi
người từ bình dân “đại trà” đến nâng cao thành mức “trà đạo” cho một thiểu số ít
người. Song, xu thế hiện nay các quán cà phê lớn không mang bình trà mà chỉ mang
ra một ly trà đá… cỡ trung, làm buồn lòng những khách quen thích một ấm trà nóng
hơn là ly trà đá nhạt nhẽo và cả… vô duyên trong lúc quây quần tụ hội với bạn
bè.
Uống trà là thú vui tao nhã hoặc
chuẩn bị bàn bạc cho một công việc tới, có khi là nơi quây quần họp mặt của đại
gia đình, có khi là tập hợp những bạn bè cùng gu, cùng sở thích. Có thể hơi mất
thời gian một tý nhưng đó là nét văn hóa đáng yêu và nên chăng tiết chế thời
gian phù hợp, tránh “cà kê” hay “ngồi đồng” cho hết buổi làm, lỡ cả công ăn
chuyện làm thì không hay lắm…
TRẦN HOÀNG VY