Lục Thị Đậu - người mở đường Pha
Lục Thị Đậu - người mở đường Phan Thiết - Mũi Né
BT- “Lối xưa xe
ngựa hồn thu thảo/ Nền cũ lâu đài bóng tịch dương” (*), có điều gì đó bâng
khuâng khi đi lại con đường Phan Thiết - Mũi Né. Đường xưa, xe ngựa cũ không
còn, nhưng khó lòng quên được người phụ nữ bằng công sức và tiền bạc đã mở con
đường này.
Tấm bia đá và
người quá cố
“Tôi là Lục Thị Đậu nghiệp chủ,
chánh quán Khánh Thiện, trú quán Phú Trinh, ở tại đường Hải Thượng Lãn Ông -
Phan Thiết đứng dựng bia này để kể lại cuộc đời dĩ vãng của tôi từ lúc sơ sanh
đến lúc trưởng thành...”.
Lục Thị Đậu là ai? Vì sao người phụ
nữ họ Lục lại tự dựng bia kể về mình? Bia được lập năm 1958, đến nay gần 60
năm. Thời gian gần phủ mờ tất cả. Một buổi sáng tôi đã không khỏi tò mò để quyết
định đi tìm chân dung người đàn bà họ Lục, người mà cha chú của tôi kể: Có nhiều
công tích trong việc mở đường Phan Thiết - Mũi Né.
 |
Bà Lục Thị Đậu chụp trước năm 1969. Ảnh do
gia đình cung cấp. |
Bất hạnh và bươn
chãi
Một ngày mùa hè năm 1888, khi ấy
lịch âm là ngày 26/6. Ở Khánh Thiện - một làng biển nhỏ của Mũi Né, nhiều người
biết chuyện một phụ nữ nghèo, vợ của một người đàn ông họ Lục, từ Chợ Lầu (khi
ấy gọi là Phan Lý Chàm) vào gánh cá mướn, vừa sinh đứa con gái. Con bé nom bụ
bẫm, vừa ra khỏi lòng mẹ đã khóc thét, khóc kéo dài. Mẹ con bé muốn dỗ con
nhưng chị ta không còn sức vì không cầm được đường huyết. Một thời gian ngắn
sau, mẹ bé gái qua đời. Mất mẹ, không sữa, bé càng khóc. Một phụ nữ đứng tuổi là
chị của mẹ bé gái quyết định bồng cháu đi xin sữa, cháo loãng. Thời gian trôi
đi. Khi Đậu được 8 tuổi, người cha, lúc này đã có vợ mới muốn đưa con gái về
nuôi. Thế nhưng chỉ được một vài năm, Đậu phải xin về lại bên nội vì… như ca
dao cổ thường nói: “Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời mẹ ghẻ mà thương con
chồng ”.
Năm 1905, Lục Thị Đậu tròn 17 tuổi.
Nước da cô đen giòn vì suốt ngày hứng gió biển, nhưng môi lúc nào cũng đỏ mọng,
mắt lá răm nhìn ai cứ như thăm thẳm, rõ là thu hút. Đậu còn được trời cho sức
khỏe. Tuy cùng gánh cá như mọi người, nhưng người ta chỉ vài ba gánh đã mệt,
còn Đậu rõ ràng trên chục gánh vẫn chạy phăm phăm. Những gia đình có con trai
trong làng đánh tiếng, nhờ mối mai hỏi Đậu cho con họ, nhưng bà nội chỉ muốn gả
Đậu cho con trai ông Hương Nhu ở làng Thiện Khánh kề bên (Hàm Tiến ngày nay).
Ngày Đậu lấy con trai ông Hương Nhu, đám rước đi tới đâu, người ta đổ ra xem đến
đó. Ai cũng mừng cho Đậu. Thế nhưng, đôi vợ chồng trẻ ấy đã đứt gánh chỉ sau một
năm vì chồng Đậu không may bị bệnh nặng qua đời. 2 - 3 năm sau, Lục Thị Đậu
xin về lại với nội. Làng Thiện Khánh năm ấy lại có thêm đợt người từ các nơi đổ
về làm biển. Nhà bên cạnh có anh Lương Trân, lúc nào thấy Đậu cũng nhìn trân
trân. Hàng xóm nói với nội: “Bà ơi, con Đậu nó đứt gánh nửa đường, nay có người
thương bà nên cho nó tái giá”. Nội nghe phải, đồng ý. Năm 1908, Đậu và người
thanh niên nhà bên nên duyên chồng vợ. Ngày ra riêng, nội cho Đậu một quan
tiền, một giạ gạo, dặn hai cháu cố gắng bươn chãi, đùm bọc, thương yêu nhau. Đó
là những ngày cực kỳ khó nhọc như bà Lục Thị Đậu kể trên văn bia: “Hết sức nghèo
khổ, thiếu trước hụt sau, thậm chí thiếu nợ, ngày nào chủ nợ cũng kéo đến đòi”.
Tạo dựng cơ
nghiệp
Đôi vợ chồng trẻ làm đủ việc kiếm
sống. 5 giờ sáng cô Đậu thức dậy. Hai vợ chồng cùng tráng bánh. Hết bánh quay
sang chiên cá bán chợ chiều. Ông Lương Trân thương vợ làm hết mọi việc nặng
nhọc. Ông chỉ có một việc không đồng ý với vợ là cô quá tiết kiệm. Bữa ăn nhà
họ thường chỉ có cá. Cá kho nhiều nước để chấm rau luộc. Có lúc gần nửa tháng,
số cá mua 2 xu vẫn còn nguyên trong nồi... Tuy vậy, với bên chồng cũ, hàng xóm
láng giềng, cô Đậu hết sức nhiệt tình, sẵn sàng giúp đỡ người ngặt nghèo, ốm
đau.
Bà kể:“ Vợ chồng hết sức cần kiệm,
được 2.000 đồng nhưng phải vay thêm 1.000 đồng… Mẹ chồng cũ cho mượn thêm 300,
tổng cộng tất cả 3.300 đồng. Nhờ số tiền ấy, vợ chồng tôi tạo được lều cá đầu
tiên, vốn là tài sản của bà Tư Mũi Né bán lại. Ngay lúc ấy, cha chồng cũ bán
chịu cho 2 chiếc ghe cá, gặp lúc cá muối mắm có giá, chúng tôi càng cố làm ăn
để thêm phát đạt. Tuy vậy, chúng tôi còn phải tự lực chưa dám mướn người ở. Thí
dụ, khi đổ xác mắm phải đợi đến nửa đêm, và phải mướn một ông già với tiền công
2 cắc để ổng xúc xác (mắm), chuyền cho tôi để tôi đội ra biển đổ”. Bà đã viết
như thế về những ngày đầu tạo dựng cơ nghiệp của mình.
 |
Nhà mộ bà Lục Thị Đậu. |
Người dân làng Khánh Thiện thấy vợ
chồng Đậu chịu khó làm ăn, làm đâu được đó nên tin tưởng bán nợ nước mắm. Đậu
chở số nước mắm ấy vào Sài Gòn bán, rồi mua hàng hóa chở về. Sau khi có tiền
thu từ hàng hóa, cô mới đem trả cho người bán nước mắm ban đầu. Với cách kinh
doanh như vậy, dần dà cô Đậu tích lũy được một số vốn để mở rộng kinh doanh ở
nhiều lĩnh vực. Cô Đậu trở nên giàu có nhất nhì xứ Phan Thiết và dân làng thường
gọi cô là bà Hòa Chánh (từ đây trở đi, gọi như thế). Bằng tài năng kinh doanh,
bà Hòa Chánh tiếp tục duy trì sự giàu có từ thập niên 30 đến thập niên 60 của
thế kỷ XX.
Bậc nhất xứ Phan
Năm 1932, Phan Thiết được chính
quyền thuộc địa chủ trương kiến thiết lại để phù hợp với tính chất là thủ phủ
của một tỉnh quan trọng của Trung Kỳ bấy giờ. Khi ấy, chính quyền thuộc địa kêu
gọi và hỗ trợ những thương gia, nhất là các thương gia địa phương, mở đường, xây
phố, lập chợ... Nhiều phố xá và chợ búa ở Phan Thiết được xây giai đoạn này như:
chợ Gò, Đồn, chợ Lớn...
Bà Hòa Chánh từ Mũi Né vào Phan
Thiết mua hơn 20 căn nhà phố trên đường Hải Thượng Lãn Ông - đường phố chính của
Phan Thiết thời ấy - để cho thuê. Cũng từ đấy, bà chính thức bước chân vào lĩnh
vực bất động sản. Đến cuối thập niên 50, tại Phan Thiết, bà Hòa Chánh có hơn 100
căn nhà phố nằm trên các tuyến đường chính, khu thương mại: Lý Thường Kiệt,
Nguyễn Thái Học, Nguyễn Hoàng (Lê Hồng Phong ngày nay), Trương Công Định,
Yersin, khu chợ củi... Bà cũng vào La Gi mua 30 căn nhà phố ngay tại khu chợ
mới. Tại Sài Gòn, bà có 25 căn nhà phố trên các tuyến đường phố chính như: Hùng
Vương, Nguyễn Cư Trinh, Bến Chương Dương... và một xưởng cưa tại Gò Vấp. Ở làng
Khánh Thiện (Mũi Né) quê hương mình, năm 1962 bà cho xây 20 căn nhà phố lầu đầu
tiên. Dãy phố này có thể nói là hiện đại nhất tại Mũi Né thập niên 60 - 70.
Không chỉ kinh doanh lĩnh vực đất đai, bà còn là cổ đông lớn của Hãng hàng không
Air Vietnam và Công ty Dentaco chuyên kinh doanh máy cày, máy kéo lớn nhất Sài
Gòn.
Ngoài ra, quá trình tìm hiểu tư liệu
về cuộc đời bà, chúng tôi hết sức bất ngờ về hàng trăm mẫu (hecta) đất đai,
ruộng vườn mà bà sở hữu. Đa số đất ấy ở: Hàm Thắng, Hàm Đức, Hồng Sơn, Ma Lâm,
Hàm Liêm... Bà Hòa Chánh còn bỏ tiền ra mua đất của Chính phủ rồi khai hoang, vỡ
hóa thành ruộng. Bởi vậy bà có một kho lúa rất lớn tại khu 60 Hải Thượng Lãn
Ông mà người dân Phan Thiết thời đó ai cũng biết.
Mở đường, xây
trường, hiến tài sản cho kháng chiến
Từ trước thập niên 30 thế kỷ XX, mọi
giao thương từ Mũi Né đi các nơi khác chủ yếu bằng đường biển. Do đặc thù Mũi Né
là bãi ngang nên tàu thuyền muốn vào Mũi Né chỉ thuận lợi trong 6 tháng mùa gió
Nam (nồm), đến mùa gió Bắc (bấc) thì hết sức khó khăn. Đường bộ từ Phan Thiết đi
Mũi Né chỉ có đường mòn để đi bộ hoặc đi ngựa. Do đường mòn lắm cát và không an
toàn vì trộm cướp nên ít người mạo hiểm đi. Xuất phát từ những lý do đó, bà Hòa
Chánh đề xuất chính quyền thuộc địa để bà làm con đường xe hơi từ Phan Thiết đi
Mũi Né. Thời đó, thi công chủ yếu bằng sức người, lại thi công trên địa hình gió
cát nên phải mất 3 năm sau mới hoàn thành xong tuyến đường gần 20km này. Năm
1922(?), việc khánh thành con đường xe hơi Phan Thiết đi Mũi Né là một sự kiện
quan trọng ở Trung Kỳ. Trước hành động nghĩa hiệp này, triều đình Huế ân tặng
cho bà Hòa Chánh bốn chữ “Hào Nghĩa Khả Gia”.
Có đường xe hơi rồi nhưng thời đó
người dân các làng Khánh Thiện, Thạch Long, Long Sơn (Mũi Né) chỉ có một trường
tiểu học công lập. Chỉ có học sinh nhà khá giả mới có điều kiện vào Phan Thiết
ở trọ theo học trung học. Do vậy, học sinh học trung học ở Mũi Né rất ít.
Thương người dân quê mình, năm 1942, bà Hòa Chánh xây dựng Trường trung học Hải
Long rồi giao lại cho chính quyền quản lý. Nhiều thế hệ học sinh Mũi Né, giai
đoạn 1942 - 1970 đều nhớ tấm bia ở sân Trường trung học Hải Long, ghi dòng chữ
“Bà Lục Thị Đậu phụng cúng”. Nghĩa cử này của bà được Hoàng đế Bảo Đại ân tặng
“Nhị Hạng Long Bội Tinh”. Ngoài ra, không chỉ lập trường học ở Mũi Né, bà còn
xây trường tiểu học tại Phú Hài, được chính quyền sở tại cho phép khai khẩn đất
đai để xây chùa ở khu vực Lầu Ông Hoàng ngày nay.
Theo tài liệu lịch sử Nam bộ kháng
chiến, năm 1945 Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời, trong tay là nền tài chính kiệt quệ, kho bạc trống rỗng. Giặc đói,
giặc dốt, giặc ngoại xâm bao vây tứ phía. Hưởng ứng lời kêu gọi “Tuần lễ vàng”
trong cả nước từ 17 - 24/9/1945 của Hồ Chủ tịch, tại Bình Thuận, cùng với các
bà: Dương Thị Lâu, Nguyễn Thị Thềm, bà Hòa Chánh ủng hộ vàng cho Chính phủ Việt
Nam Dân chủ cộng hòa.
Do không có con nên vợ chồng bà xin
một người con nuôi và đặt tên là Lương Xuân. Vợ chồng bà đồng ý cho con nuôi
duy nhất của mình tham gia kháng chiến. Ông Lương Xuân là tiểu đội trưởng cảm
tử đội Phan Thiết. Năm 1948, trên đường đi công tác, ông bị mật thám bắt và xử
tử tại khu vực xóm Đầm (Bình Hưng, Phan Thiết).
Cả một đời tần tảo, làm giàu cho
mình và đóng góp cho xã hội nhiều điều hay, bà Hòa Chánh xứng đáng được người
đời ghi nhớ. Bà mất năm 1974, thọ 86 tuổi, được an táng trong phần mộ của gia
đình tại phường Phú Hài (Phan Thiết).
LÊ HUÂN
(*): Trích thơ “Thăng Long thành hoài cổ” của Bà Huyện Thanh Quan. Ý nói đến “sự
vật đổi sao dời”, không có gì vững bền trước thời gian.